Gây chuyển dạ là gì? Các công bố khoa học về Gây chuyển dạ

Gây chuyển dạ là quá trình mà thai nhi trong tử cung đổi từ tư thế ngã sang tư thế ngồi làm sẵn sàng cho quá trình chuyển dạ và sinh. Gây chuyển dạ diễn ra thô...

Gây chuyển dạ là quá trình mà thai nhi trong tử cung đổi từ tư thế ngã sang tư thế ngồi làm sẵn sàng cho
quá trình chuyển dạ và sinh. Gây chuyển dạ diễn ra thông qua một số sự chuyển động của thai nhi trong tử cung, bao gồm việc xoay, ngoáy và lật mình. Trong quá trình này, thai nhi thường xoay đầu xuống và vị trí ngồi trong tử cung để chuẩn bị cho lúc sinh ra ngoài. Gây chuyển dạ thường xảy ra trước khi bắt đầu quá trình sinh đẻ và có thể diễn ra từ vài tuần trước ngày dự định sinh.
Trong quá trình gây chuyển dạ, thai nhi thường thực hiện một số sự chuyển động để thay đổi vị trí trong tử cung, chuẩn bị cho quá trình chuyển dạ và sinh. Quá trình này có thể diễn ra trong vòng vài tuần trước khi bắt đầu quá trình sinh đẻ. Dưới đây là một số chi tiết về các sự chuyển động của thai nhi trong quá trình gây chuyển dạ:

1. Xoay đầu xuống: Thai nhi thường xoay đầu xuống gần cổ tử cung khi chuẩn bị gây chuyển dạ. Điều này gây áp lực lên cổ tử cung và làm mở cổ tử cung sẵn sàng cho quá trình sinh đẻ.

2. Ngồi ngửa và lật mình: Thai nhi có thể ngồi ngửa và lật mình trong lúc gây chuyển dạ. Điều này giúp thai nhi thay đổi vị trí trong tử cung, tạo điều kiện cho việc xuống chuyển dạ sau này.

3. Ngoáy: Thai nhi thường ngoáy từ một bên sang bên kia để thay đổi vị trí. Điều này giúp thai nhi đặt chân hoặc đầu vào vị trí phù hợp để chuẩn bị cho lúc sinh ra ngoài.

Sự chuyển động của thai nhi trong quá trình gây chuyển dạ có thể được cảm nhận như những cú đá, nhảy hay quay tròn từ phía trong tử cung. Cảm giác này thường được mẹ bầu cảm nhận rõ rệt. Khi thai nhi đã chuyển dạ, đầu thai sẽ đặt ở vị trí nhô ra ngoài cổ tử cung và đây là tín hiệu cho biết thai nhi đã sẵn sàng cho quá trình sinh đẻ.

Quá trình gây chuyển dạ thường diễn ra tự nhiên và không đòi hỏi sự can thiệp từ bên ngoài. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi thai nhi không đạt được vị trí chuyển dạ hoặc có vấn đề về vị trí của tử cung, tái chuyển dạ hoặc thậm chí đến đẻ mổ có thể là cần thiết. Do đó, nếu bạn có bất kỳ lo lắng hay câu hỏi nào liên quan đến quá trình gây chuyển dạ, hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ để được tư vấn và xem xét tình trạng cụ thể của bạn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "gây chuyển dạ":

Phát hiện chất gây ung thư dưới dạng đột biến trong thử nghiệm Salmonella/microsome: kiểm tra 300 hóa chất. Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 72 Số 12 - Trang 5135-5139 - 1975
Khoảng 300 chất gây ung thư và không gây ung thư thuộc nhiều loại hóa học khác nhau đã được kiểm tra tính đột biến gen trong thử nghiệm Salmonella/microsome đơn giản. Thử nghiệm này sử dụng vi khuẩn như là chỉ thị nhạy cảm cho tổn thương DNA, và các chiết xuất gan động vật có vú để chuyển hóa chất gây ung thư thành dạng đột biến hoạt động. Các dữ liệu định lượng về tính đột biến từ các đường cong liều lượng - phản ứng tuyến tính được trình bày: độ mạnh của tính đột biến thay đổi trong một khoảng rộng 10(6)-lần. Có sự tương quan cao giữa khả năng gây ung thư và tính đột biến: 90% (156/174) số chất gây ung thư có khả năng đột biến trong thử nghiệm này và mặc dù có những giới hạn nghiêm ngặt trong việc xác định tính không gây ung thư, ít có chất "không gây ung thư" nào thể hiện bất kỳ mức độ đột biến nào. Kết quả cũng chứng minh tính hữu dụng lớn và xác định các giới hạn, của thử nghiệm trong việc phát hiện các chất gây ung thư môi trường.
#chất gây ung thư #đột biến #thử nghiệm Salmonella/microsome #hóa chất #tổn thương DNA #chuyển hóa #định lượng #mạnh #tương quan #không gây ung thư #môi trường
Vi khuẩn và Sự Tiến Hóa của Tác Nhân Gây Bệnh: từ Sự Tái Sắp Xếp Hệ Gen đến Chuyển Đổi Lysogen Dịch bởi AI
Microbiology and Molecular Biology Reviews - Tập 68 Số 3 - Trang 560-602 - 2004
TÓM LƯỢC

Genomics so sánh đã chứng minh rằng các nhiễm sắc thể từ vi khuẩn và virus của chúng (thực khuẩn thể) đang đồng tiến hóa. Quá trình này được quan sát rõ nhất ở các tác nhân gây bệnh của vi khuẩn, nơi mà phần lớn chứa các prophage hoặc dư lượng phage tích hợp vào DNA của vi khuẩn. Nhiều prophage từ các tác nhân gây bệnh vi khuẩn mã hóa các yếu tố gây độc. Có thể phân biệt hai tình huống: Vibrio cholerae, Shiga toxin-producingEscherichia coli, Corynebacterium diphtheriae, và Clostridium botulinum phụ thuộc vào một độc tố được mã hóa bởi prophage cụ thể để gây ra một bệnh nhất định, trong khi Staphylococcus aureus, Streptococcus pyogenes, và Salmonella enterica serovar Typhimurium mang một loạt các prophage và mỗi yếu tố gây độc lực hoặc yếu tố thể chất được mã hóa bởi phage đóng góp từng bước vào sự thích nghi của lysogen. Các prophage này cư xử như "các bầy đàn" của các prophage có liên quan. Sự đa dạng hóa của prophage dường như được thúc đẩy bởi sự chuyển giao thường xuyên của vật liệu phage bằng cách tái tổ hợp với các phage siêu nhiễm, prophage cư trú hoặc thỉnh thoảng tiếp nhận các yếu tố DNA di động khác hoặc các gene nhiễm sắc thể vi khuẩn. Các prophage cũng đóng góp vào sự đa dạng hóa cấu trúc hệ gen vi khuẩn. Trong nhiều trường hợp, thực tế chúng đại diện cho một phần lớn của các trình tự DNA đặc hiệu cho chủng. Ngoài ra, chúng có thể phục vụ như điểm neo cho các đảo ngược hệ gen. Bài đánh giá hiện tại trình bày dữ liệu genomics và sinh học có sẵn về prophage từ các tác nhân gây bệnh vi khuẩn trong một khung tiến hóa.

#prophage #vi khuẩn #tác nhân gây bệnh #genomics #thực khuẩn thể #đồng tiến hóa #yếu tố gây độc #chuyển đổi lysogen #đa dạng hóa hệ gen.
Ảnh hưởng của việc tiếp xúc với dimethoate ở nồng độ dưới ngưỡng gây chết đối với hành vi di chuyển của loài collembola Folsomia candida (Isotomidae) Dịch bởi AI
Environmental Toxicology and Chemistry - Tập 14 Số 9 - Trang 1587-1590 - 1995
Tóm tắt

Hành vi di chuyển của loài collembola Folsomia candida Willem 1902 (Isotomidae) đã được đo tự động trong quá trình tiếp xúc với đất được xử lý bằng nồng độ dimethoate dưới ngưỡng gây chết. Trong suốt 36 giờ đo lường, có sự thay đổi đáng kể về quãng đường đi được, vận tốc trung bình và tỷ lệ quay. Kết luận cho thấy rằng những chỉ số này cung cấp một thước đo nhạy cảm đối với stress do độc tố.

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG BÁN PHẦN KHÔNG CEMENTE ĐIỀU TRỊ GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC NĂM 2017-2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Gãy vùng nền cổ- mấu chuyển xương đùi là loại gãy thường gặp, đặc biệt là người cao tuổi. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật thay khớp háng bán phần không cemente điều trị gãy xương vùng nền cổ - mấu chuyển xương đùi người cao tuổi . Nghiên cứu mô tả cắt ngang 147 bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 80.5 tuổi, tỷ lệ nữ/nam là 2/1, tại Bệnh viện Việt Đức từ 01/2017 tới tháng 06/2020. Kết quả phẫu thuật tốt và rất tốt đạt 80,9%, khá đạt 14,3 %, trung bình và xấu 4,8%. Phẫu thuật thay khớp háng bán điều trị gãy LMC là một giải pháp tốt cho các bệnh nhân cao tuổi.
#Gãy liên mấu chuyển xương đùi #thay khớp háng bán phần
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG ĐỂ GIẢM ĐAU CHUYỂN DẠ CHO SẢN PHỤ SINH THƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN SẢN-NHI TỈNH QUẢNG NGÃI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Hiện nay, phương pháp giảm đau chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng được áp dụng tại nhiều bệnh viện Phụ sản, đem lại nhiều lợi ích cho sản phụ và làm giảm tỷ lệ sinh mổ. Bệnh viện chúng tôi đang sử dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng Bupivacain phối hợp với Fentanyl để giảm đau trong chuyển dạ nhưng chưa được đánh giá, chúng tôi muốn xem hiệu quả tác dụng giảm đau của phối hợp hai loại thuốc này. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau, các tác dụng không mong muốn và mức độ hài lòng của sản phụ khi lựa chọn phương pháp gây tê ngoài màng cứng trong chuyển dạ sinh thường bằng phối hợp thuốc Bupivacain và Fentanyl. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả chọn sản phụ từ 18-40 tuổi, có chỉ định sinh thường, thuộc nhóm ASA I, II, đồng ý tham gia nghiên cứu và không có chống chỉ định gây tê ngoài màng cứng từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2020 tại Bệnh viện Sản-Nhi tỉnh Quảng Ngãi. Kết quả: 326 sản phụ, chiều cao trung bình là 159,07 ±7,71cm và cân nặng trung bình là 60,04 ± 7,59 kg. Hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ: Thời gian khởi tê trung bình là 5,77±1,35 phút. Thay đổi điểm VAS: trước khi gây tê điểm VAS trung bình của sản phụ là 7,15±1,28, tương ứng mức độ đau nhiều và rất nhiều; sau 5 phút gây tê và trong các giai đoạn còn lại của cuộc chuyển dạ, điểm VAS trung bình đều <4. Tác dụng không mong muốn: Phương pháp chưa ghi nhận ảnh hưởng đến tim thai trong chuyển dạ; không ảnh hưởng đến tần số tim cũng như thay đổi SpO2, huyết áp của sản phụ. Ghi nhận một số tác dụng không mong muốn nhưng không ảnh hưởng đến tổng trạng sản phụ trong cuộc đẻ như: lạnh run, tụt huyết áp, nôn, bí tiểu, ngứa, đau đầu. Tỷ lệ sản phụ rất hài lòng là 30,68%. Kết luận: Phương pháp duy trì giảm đau trong các giai đoạn của quá trình chuyển dạ đều rất tốt, thể hiện: trước khi gây tê điểm VAS trung bình đều >7, sau khi khởi tê điểm VAS trung bình ở các giai đoạn của chuyển dạ đều <4. Phương pháp chưa ghi nhận ảnh hưởng tới hô hấp của sản phụ và tần số tim thai. Tỷ lệ tác dụng không mong muốn ít. Tỷ lệ sản phụ hài lòng cao.
#Gây tê ngoài màng cứng #giảm đau chuyển dạ #Bệnh viện Sản-Nhi tỉnh Quảng Ngãi
Ứng dụng phương pháp dùng ống thông hai bóng cải tiến làm mềm mở cổ tử cung gây chuyển dạ tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 1 - Trang 86 - 90 - 2016
Mục đích: đánh giá hiệu quả, độ an toàn và tác dụng không mong muốn của ống thông hai bóng cải tiến BVPSTƯ trong làm mềm mở cổ tử cung(CTC) gây chuyển dạ tại khoa Đẻ Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Thiết kế nghiên cứu: hồi cứu. Đối tượng nghiên cứu: thai phụ sử dụng ống thông hai bóng cải tiến BVPSPW gây chuyển dạ từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2015 với tiêu chuẩn: một thai sống, ngôi chỏm, chỉ số bishop < 6 điểm, màng ối còn nguyên vẹn, không có nhiễm khuẩn âm đạo do liên cầu nhóm B. Kết quả của nghiên cứu: xác định thành công của phương pháp (làm CTC mở > = 3 cm hay Bishop >= 8 điểm),thời gian từ khi đặt bóng đến khi tháo bóng và đến khi đẻ, thay đổi chỉ số Bishop CTC, chỉ định dùng oxytocin kèm, biến chứng cho sản phụ và thai nhi, yếu tố ảnh hưởng đến thành công của phương pháp. Kết quả: 120 trường hợp đặt bóng làm mềm, mở CTC gây chuyển dạ với thành công đạt 90% (108/120). Tỷ lệ đẻ đường âm đạo trong vòng 24 giờ gây chuyển dạ là 78,3 %. Thời gian trung bình từ khi đặt bóng đến khi tháo bóng là 9,07 ± 3,40 giờ, thời gian từ khi đặt bóng đến khi đẻ là 18,8 ± 5,4 giờ, thay đổi điểm chỉ số Bishop CTC trước đặt và sau khi tháo bóng là 5 điểm. Không có biến chứng nặng nề nào gây ra cho sản phụ và thai nhi. Kết luận: Nghiên cứu đã khẳng định ống thông 2 bóng cải tiến có hiệu quả cao trong làm mềm mở cổ tử cung và có giá trị trong làm tăng tỷ lệ đẻ đường âm đạo trong 24 giờ khi gây chuyển dạ. Phương pháp này hầu như không gây nguy hại gì cho sản phụ và thai nhi.
#gây chuyển dạ #ống thông hai bóng cải tiến BVPSTƯ #cổ tử cung.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI BẰNG ĐINH TRIGEN INTERTAN TẠI BỆNH VIỆN CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số 5 - 2023
Đặt vấn đề: Gãy liên mấu chuyển xương đùi là một trong những tổn thương thường gặp ở người lớn tuổi (90% gặp ở bệnh nhân trên 65 tuổi). Loại gãy này có tỉ lệ tử vong cao và gây ra những khiếm khuyết nặng nề về chức năng. Lựa chọn điều trị thông thường với gãy liên mấu chuyển xương đùi không vững bao gồm đinh đầu trên xương đùi chống xoay (PFNA) và đinh Trigen InterTan (IT). Với ưu điểm về cơ sinh học và tỉ lệ thất bại thấp, PFNA hoặc IT thường được lựa chọn sử dụng để điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi không vững và cho kết quả lâm sàng tốt. Đinh IT với thiết kế gồm 2 vít vùng chân cổ xương đùi với cơ chế tích hợp, cho phép nén ép dọc trục và chống xoay mảnh cổ chỏm xương đùi. Nhóm nghiên cứu chúng tôi đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng đinh Trigen InterTan tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình. Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng đinh Trigen InterTan (IT) tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồ cứu mô tả loạt ca. Chúng tôi thực hiện phẫu thuật 35 bệnh nhân được chẩn đoán gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng đinh Trigen InterTan tại khoa Cấp cứu và khoa Chi dưới, Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình, thời gian từ tháng 2/2021 đến tháng 8/2021, sau đó ghi nhận các đặc điểm về dịch tễ học, thời gian phẫu thuật, thời gian nằm viện, số lượng máu mất, số lượng máu cần truyền trong phẫu thuật, tỉ lệ lành xương và các biến chứng sớm và muộn liên quan đến đinh IT. Kết quả: Độ tuổi trung bình 70,97±16,97, thời gian phẫu thuật 70,97±10,59 phút, thời gian phẫu thuật trung bình 60 phút, thời gian nằm viện trung bình 7 ngày, lượng máu mất trung bình 160,86±72,8 ml, lượng máu cần truyền trong phẫu thuật trung bình 203,43 ± 189,29 ml, tỉ lệ lành xương chiếm 97,14%. Kết luận: Gãy liên mấu chuyển không vững được điều trị thành công với đinh IT ở bệnh nhân lớn tuổi. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy đinh IT cho kết quả lâm sàng về thời gian phẫu thuật, thời gian nằm viện, lượng máu mất trong phẫu thuật và tỉ lệ lành. Những nghiên cứu sâu hơn cần được thực hiện để chứng minh những kết quả ban đầu này.
#Gãy liên mấu chuyển xương đùi #đinh Trigen InterTan.
Đánh giá hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ đẻ của gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển bằng ropivacain ở các nồng độ và liều lượng khác nhau phối hợp với fentanyl
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ đẻ của ropivacain ở các nồng độ 0,075%; 0,1% và 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml gây tê ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển (PCEA). Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có so sánh trên 90 sản phụ chuyển dạ đẻ được giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển, chia thành ba nhóm bằng nhau, sử dụng ropivacain ở các nồng độ 0,075%; 0,1% và 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml. Kết quả: Trong các giai đoạn của chuyển dạ đẻ: Giai đoạn Ib, cả ba nồng độ của ropivacain đều cho hiệu quả giảm đau tốt, > 90% sản phụ có VAS < 4; giai đoạn II, nhóm ropivacain 0,075% có 26,7% không được giảm đau đủ, VAS > 4. Kết luận: Gây tê ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển (liều bolus ban đầu là 10ml, liều bolus mỗi lần bấm máy là 5ml, thời gian khóa là 5 phút) bằng ropivacain ở nồng độ 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml là phù hợp để giảm đau trong chuyển dạ đẻ.
#Giảm đau trong chuyển dạ #gây tê ngoài màng cứng #ropivacain #fentanyl.
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM TỔN THƯƠNG GIẢI PHẪU GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI TRÊN HÌNH ẢNH CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá chính xác tổn thương giải phẫu đóng vai trò quan trọng trong xây dựng kế hoạch điều trị phẫu thuật gãy liên mấu chuyển xương đùi. Đối tượng và phương pháp: Gồm 101 bệnh nhân gãy liên mấu chuyển xương đùi được phân loại tổn thương giải phẫu dựa trên X quang theo phân loại của AO và phân loại theo Etsuo dựa trên hình ảnh CT 3D. Tìm hiểu  mức độ phù hợp của phân  loại theo AO dựa trên X quang so với phân loại theo Etsuo dựa trên hình ảnh CLVT. Kết quả: Kết quả nghiên cứucho thấy gãy liên mấu chuyển xương đùi tồn tại 3 đường gãy chính: đường gãy ở phía trước gặp ở 101 trường hợp (100%), đường gãy ở phía sau gặp ở 92 trường hợp (91,09%) và đường gãy ở phía ngoài gặp ở 53 trường hợp (52,47%). Phân loại theo Etsuo gồm: gãy 2 phần chiếm 19,80%, gãy 3 phần chiếm 72,28% và gãy 4 phần chiếm 7,92%. Gãy 3 phần loại chỏm – mấu chuyển lớn + mấu chuyển bé +thân xương chiếm tỷ lệ cao nhất (41,10%). Trong 41 trường hợp gãy 2 phần trên X quang qui ước, chụp CLVT dựng hình 3 D phát hiện 21 trường hợp gãy 3 phần.  Kết quả nghiên cứu ghi nhận có sự phù hợp kém về phân loại theo số phần gãy giữa XQ và CLVT với K = 0,405. Kết luận:  Phân loại gãy liên mấu chuyển dựa trên phim X quang có sự hạn chế về độ chính xác. Hình ảnh chụp CLVT có dựng hình 3 D đã được chứng minhlà chính xác cao hơn do phát hiện đầy đủ hơn về vị trí, hình thái các đường gãy và số lượng mảnh gãy
#Cắt lớp vi tính #gãy liên mấu chuyển #X quang
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI BẰNG PHẪU THUẬT KẾT HỢP XƯƠNG NẸP KHÓA TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA NÔNG NGHIỆP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề:  Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng phẫu thuật kết hợp xương nẹp khóa tại Bệnh viện đa khoa Nông Nghiệp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên 43 bệnh nhân được chẩn đoán gãy liên mấu chuyển xương đùi được điều trị phẫu thuật kết xương bằng nẹp vít khóa tại khoa Ngoại chấn thương Bệnh viện Đa Khoa Nông Nghiệp từ tháng 02/2018 –  02/2021. Kết quả: Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 71,65 ± 12 tuổi, tai nạn sinh hoạt, là nguyên nhân dẫn đến chấn thương chiếm tỷ lệ cao nhất (79%) và tổn thương chủ yếu là loại A1 (48,8%) theo phân loại tiêu chuẩn AO. Kết quả chung theo tiêu chuẩn của Nguyễn Trung Sinh: tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ cao 72,1%, trung bình là 25,6%, kém là 2,3%. Kết luận: Gãy liên mấu chuyển xương đùi là kiểu gãy xương khá phổ biến và có nhiều phương pháp điều trị. Phẫu thuật kết hợp xương nẹp khóa nhằm nắn chỉnh phục hồi về giải phẫu, cố định ổ gãy vững chắc, tạo điều kiện để tập phục hồi chức năng sớm sau phẫu thuật.
#Gãy liên mấu chuyển xương đùi
Tổng số: 69   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7